Tổng quan về thiết kế, xây dựng và sử dụng bể tự hoại

Ngày đăng: 14/09/2023 1216 lượt xem
1. Giới thiệu
>> Thiết kế, xây dựng và sử dụng bể tự hoại
>> Bản vẽ chi tiết cấu tạo bể phốt tự hoại 3 ngăn cho nhà dân
Bể tự hoại đầu tiên xuất hiện ở Pháp vào năm 1860, do kỹ sư Fosse Mouras phát minh ra. Cho đến nay, loại công trình xử lý nước thải tại chỗ này đã được phổ  cập  trên toàn Thế  giới.  Ở  Việt Nam, bể tự hoại cũng trở nên ngày càng phổ biến. Bể tự hoại có thể phục vụ cho một khu vệ sinh, một hộ gia đình hay nhóm hộ gia  đình, cho các đối tượng thải nước khác như bếp ăn  tập thể, nhà hàng, khách sạn, khu du  lịch, trường học, bệnh viện,  văn phòng làm  việc, các cơ sở chăn nuôi và chế biến nông sản, thực phẩm, vv…
Bể tự hoại được sử dụng phổ biến ở nhiều nơi bởi có nhiều ưu điểm như hiệu suất xử lý  ổn  định, kể cả khi dòng nước thải đầu vào có dao động lớn, chiếm ít  diện tích,  giá thành rẻ  và  việc xây dựng, quản lý đơn giản, nên dễ được chấp nhận. Tuy nhiên, để phát huy vai trò của công trình xử lý nước thải tại chỗ này, cần thiết kế, thi công xây dựng, lắp đặt và quản lý vận hành, bảo dưỡng bể tự hoại đúng, nhất là với điều kiện ở nước ta hiện nay, khi phần lớn nước thải, sau khi xử lý sơ bộ  ở bể tự hoại, được xả trực tiếp  ra nguồn tiếp  nhận mà không qua bất kỳ một khâu xử lý nào tiếp theo. Việc hiểu rõ và làm tốt công tác thiết kế, thi công lắp đặt và quản lý vận hành – bảo dưỡng bể tự hoại còn góp phần nâng cao nhận thức và  huy động sự  tham gia của cộng đồng trong xây dựng, quản lý hạ tầng kỹ thuật đô thị và bảo vệ môi trường.
Trong bể tự hoại diễn ra quá trình lắng  cặn và lên  men,  phân huỷ sinh  học kỵ khí  cặn lắng. Các chất hữu cơ trong nước thải và bùn cặn đã lắng, chủ yếu là các Hydrocacbon, đạm, béo, … được phân hủy bởi các vi khuẩn kỵ khí và các loại nấm men. Nhờ vậy,  cặn lên men, bớt mùi  hôi, giảm thể tích. Chất không tan chuyển thành chất tan và chất khí (chủ yếu  là CH4,  CO2,  H2S, NH3, …). Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý nước thải và tốc độ phân huỷ bùn cặn trong bể tự hoại: nhiệt độ và các yếu tố môi trường khác; lưu lượng dòng thải và thời gian lưu nước tương ứng; tải trọng chất bẩn (rất phụ  thuộc vào  chế  độ dinh dưỡng của người sử dụng  bể hay loại nước thải nói chung); hệ số  không điều hoà và lưu  lượng tối đa; các thông số  thiết kế và cấu tạo bể: số ngăn bể, chiều cao, phương pháp bố trí đường ống dẫn nước  vào  và  ra  khỏi bể, qua các vách ngăn, …
Bể tự hoại được thiết kế và xây dựng đúng cho phép đạt  hiệu  suất  lắng cặn trung bình 50 –  70% theo cặn lơ lửng (TSS) và 25 – 45% theo chất hữu cơ (BOD và  COD) (Nguyễn Việt  Anh và nnk, 2006, Bounds, 1997, Polprasert, 1982). Các mầm  bệnh có  trong phân cũng được loại  bỏ một phần trong bể tự hoại, chủ yếu nhờ cơ chế hấp phụ lên cặn và lắng xuống, hoặc chết đi  do thời gian lưu bùn và nước trong bể lớn, do  môi trường sống  không thích  hợp.  Cũng chính vì vậy, trong phân bùn bể tự hoại chứa một lượng rất lớn các mầm bệnh có nguồn gốc từ phân.
Bể tự hoại ở hầu hết các nước đều tiếp nhận và xử lý cả hai loại nước thải trong hộ gia đình – nước đen và nước xám. Nước thải sau bể tự hoại được dẫn tới các công trình xử lý tại chỗ (bãi lọc ngầm, bể sinh học hiếu khí, vv…) hay tập trung, theo cụm, …
Bể tự hoại được du nhập vào Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc. Thời đó, chỉ có một số công trình xây dựng mới có trang bị bể tự hoại (có hoặc không có ngăn lọc), xử lý cả nước đen và nước xám. Dần dần, do sự phát triển của đô thị,  các công trình được cơi nới,  xây dựng thêm,  các khu như mới mọc lên, nhưng việc xây dựng các tuyến cống thu gom nước thải và tách riêng nước thải ra khỏi nước mưa không theo kịp với sự phát  triển, người ta đấu thẳng đường ống  dẫn nước xám và nước nhà bếp ra ngoài hệ  thống cống chung,  chỉ còn có  nước đen chảy vào  bể tự hoại. Đây là bức tranh rất phổ biến ở các đô thị ở Việt Nam hiện nay. Phương thức này cũng đã lan rộng nhanh chóng ra các vùng ven đô và vùng nông thôn. Nhiều bể tự hoại được thiết kế, xây dựng và vận hành không đúng quy cách về  kích thước tối thiểu,  cách bố  trí  đường ống, vách ngăn, làm sinh ra dòng chảy tắt trong bể,  sục bùn và  váng cặn,  bể  bị rò  rỉ làm ô nhiễm và nước ngầm thấm vào,… Đúng ra, bùn cặn trong bể tự hoại phải được hút theo chu kỳ từ 1 đến 3 năm, nhưng trong thực tế, nhiều bể tới 7  hoặc 10 năm mới được hút, khi hộ gia đình gặp phải những vấn đề như tắc, tràn nước, mùi hôi, …, nên hiệu quả làm việc thấp.
Bên cạnh loại bể tự hoại truyền thống, còn có các loại bể tự hoại sau: bể tự hoại có  ngăn  lọc hiếu khí, ngăn lọc kỵ khí, hay có lõi lọc tháo lắp  được; bể tự  hoại với các  vách ngăn mỏng dòng hướng lên (bể BAST); bể tự hoại với các  vách ngăn mỏng dòng  hướng lên và  ngăn lọc  kỵ khí (bể BASTAF); bể tự hoại có ngăn bơm (trong hệ  thống thoát nước  gồm các bể tự hoại  và đường ống áp lực); các loại bể tự hoại khác, kết hợp với các quá trình xử lý như  xử lý  hiếu khí có sục khí nhân tạo, có dòng tuần hoàn, có thu  khí sinh  học,  vv… Chi tiết  về các loại bể này được trình bày trong cuốn sách: Bể tự hoại và Bể tự hoại cải tiến, Nhà xuất bản Xây dựng, 9/2007 của cùng tác giả.

2. Thiết kế bể tự hoại

Tổng dung tích của bể tự hoại V (m3) được tính bằng tổng dung tích ướt (dung tích hữu ích)
của bể tự hoại VƯ, cộng với dung tích phần lưu không tính từ mặt nước lên tấm đan nắp bể Vk.
V = VƯ + Vk (1)
Dung tích ướt của bể tự hoại bao gồm 4 vùng phân biệt, tính từ dưới lên trên:
– Vùng tích luỹ bùn cặn đã phân huỷ Vt;
– Vùng chứa cặn tươi, đang tham gia quá trình phân huỷ Vb;
– Vùng tách cặn (vùng lắng) Vn;
– Vùng tích luỹ váng – chất nổi Vv  (xem Hình 1).
Vư = Vn + Vb + Vt + Vv (2)
Dung tích vùng lắng – tách cặn Vn: được xác định theo loại nước thải, thời gian lưu nước tn và lượng nước thải chảy vµo bể Q, có tính đến giá trị lưu  lượng  tức  thời của dòng  nước  thải. Thời gian lưu nước tối thiểu tn được xác định theo Bảng 1.
Bảng 1. Thời gian lưu nước tối thiểu trong vùng lắng của bể tự hoại
Dung tích cần thiết vùng tách cặn của bể tự hoại Vn (m3) bằng:
Vn = Q.tn = N.qo.tn /1000 (3)
Trong đó:
N – số người sử dụng bể, người;
qo – tiêu chuẩn thải nước, tùy thuộc vào điều kiện khí hậu và mức độ trang thiết bị vệ sinh của ngôi nhà. Có thể sơ bộ lấy qo cho bể tự hoại chỉ tiếp nhận nước đen là 30 – 60  l/người.ngày,  hỗn hợp nước đen và nước xám là 100 – 150 l/người.ngày.
– Dung tích vùng phân huỷ cặn tươi Vb (m3):
Vb = 0,5.N.tb/1000 (4)
Giá trị của tb được nêu trong Bảng 2.
Bảng 2. Thời gian cần thiết để phân huỷ cặn theo nhiệt độ
– Vùng lưu giữ bùn đã phân huỷ Vt(m3): Sau khi cặn phân huỷ, phần còn lại lắng xuống dưới đáy bể và tích tụ ở đó làm thành lớp bùn. Dung tích bùn này phụ thuộc tải lượng đầu vào của nước thải, theo số người sử dụng, thành phần và tính chất của nước thải, nhiệt độ và thời gian lưu, được tính như sau:
Vt = r.N.T/1000 (5)
Với: r – lượng cặn đã phân huỷ tích luỹ của 1 người trong 1 năm.
– Với bể tự hoại xử lý nước đen và nước xám: r = 40 l/(người.năm).
– Bể tự hoại chỉ xử lý nước đen từ khu vệ sinh: r = 30 l/(người.năm).
T – khoảng thời gian giữa 2 lần hút cặn, năm.
– Dung tích phần váng nổi Vv thường được lấy bằng (0,4 – 0,5)Vt hay có thể lấy sơ  bộ  với  chiều cao lớp váng bằng 0,2 – 0,3 m. Trong trường hợp bể tự hoại tiếp nhận nước thải từ nhà bếp, nhà ăn, cần tăng dung tích vùng chứa bùn cặn và váng lên thêm 50%.
– Dung tích phần lưu không trên mặt nước của bể tự hoại Vk được lấy bằng 20% dung tích ướt, hoặc theo cấu tạo bể, với chiều cao phần lưu không (tính từ mặt nước đến nắp bể) không  nhỏ hơn 0,2 m. Phần lưu không giữa các ngăn của bể tự hoại phải được thông với nhau và có ống thông hơi.
– Cách tính giản lược, áp dụng cho bể tự hoại hộ và nhóm hộ gia đình:
Đối với bể tự hoại xử lý nước thải sinh hoạt cho các hộ và nhóm hộ gia đình, để cho đơn giản, lấy nhiệt độ trung bình của nước thải bằng 20oC. Dung tích ướt tối thiểu của bể tự hoại xử lý nước đen và nước xám bằng:
Vư = (N.qo.tn + 24 + 56.T)/1000 (6)
Tương tự, dung tích ướt của bể tự hoại xử lý nước đen từ khu vệ sinh bằng:
Vư = (N.qo.tn + 24 + 42.T)/1000 (7)
– Đối với bể tự hoại xử lý nước thải cho các hộ  gia đình đơn lẻ, có  thể xác định sơ bộ dung  tích ướt tối thiểu của bể một cách đơn giản hơn nữa, theo số người thực tế sử dụng bể, theo  công thức:
Vư = N.Vo (8)
Trong đó: Vo là dung tích ướt đơn vị của bể tự hoại: Vo = 0,34  m3/người đến 0,60 m3/người,  nếu bể xử lý cả nước đen  và  nước xám;  Vo =  0,27m3/người đến 0,30m3/người, nếu  bể chỉ xử lý nước đen từ khu vệ sinh. Số người sử dụng tăng thì dung tích đơn vị giảm.
Bảng 3. Kích thước tối thiểu của bể tự hoại xử lý nước đen và nước xám
Kích thước bể tự hoại nêu trong bảng là kích thước hữu ích tối thiểu, không kể tường và vách ngăn, được tính với tiêu chuẩn thải nước sinh hoạt 150 lít/người.ngày, nhiệt độ trung bình của nước thải là 20oC, chu kỳ hút cặn 3 năm/lần.
Bảng 4. Kích thước tối thiểu của bể tự hoại xử lý nước đen
Kích thước bể tự hoại nêu trong bảng là kích thước hữu ích tối thiểu, không kể tường và vách ngăn, được tính với lượng nước đen từ khu vệ sinh chảy vào bể  tự  hoại 60  lít/người.ngày,  nhiệt độ trung bình của nước thải là 20 oC, chu kỳ hút cặn 3 năm/lần.
Kết quả tính toán cũng cho ta thấy rằng dung tích bể không tăng đáng kể khi dẫn cả nước xám vào  bể tự hoại, nhất là khi số người sử dụng tăng. Điều này càng cho thấy sự cần thiết  và cái   lợi của việc xử lý  cả nước đen và  nước xám  trong bể tự hoại, thay vì  cho xử lý chỉ  nước đen  từ nhà vệ sinh
như hiện nay.
Để tránh lớp
Váng nổi trên mặt nước, phải bố trí tấm chắn hướng dòng hay Tê dẫn nước vào, ra ngập  dưới mặt nước không ít hơn 0,4 m (đảm bảo cách mặt dưới lớp  váng  cặn không  dưới 0,15  m).  Đồng thời, để tránh sục cặn, bùn từ đáy bể, miệng Tê dẫn nước vào và ra phải cách  lớp  bùn  cao nhất không dưới 0,3 m. Đầu trên của Tê  cao hơn mặt nước  không ít hơn 0,15  m. Không dẫn nước vào bể qua ống đứng thoát nước để tránh xáo trộn và sục bùn, cặn trong bể. Cốt đáy ống vào cao hơn đáy ống ra ít nhất 0,05 m. Để đảm bảo chế độ tự chảy và tránh ngập cục bộ,  đáy ống ra phải cao hơn mực nước cao nhất trong cống tiếp nhận nước thải sau bể tự hoại và mực nước ngầm cao nhất. Các ống dẫn nước vào, ra  và  giữa  các ngăn  phải được đặt so  le  nhau để quãng đường nước chảy trong bể dài nhất, tránh hiện tượng chảy tắt. Trên các vách ngăn trong bể có cửa thông nước hoặc cút dẫn nước. Khoảng cách mép  trên cửa  thông nước đến mặt nước không dưới 0,3 m để tránh váng cặn tràn sang ngăn sau.
Dung tích ướt tối thiểu của bể tự  hoại xử  lý  nước đen và nước xám lấy bằng 3m3. Dung tích  tối thiểu bể tự hoại xử lý nước đen lấy bằng 1,5 m3. Trên thực tế, khi có điều kiện về diện tích  và kinh phí, người ta thường xây dựng bể tự hoại có  kích thước  lớn hơn  kích thước tối thiểu, để tăng độ an toàn khi sử dụng và kéo dài chu kỳ hút bùn. Nghiên cứu của Harada trên 750 bể  tự hoại ở nội thành Hà Nội (2006) cho  thấy dung tích trung bình của  các bể tự hoại hộ  gia  đình ở khu vực nội thành Hà Nội (chủ yếu chỉ tiếp nhận nước đen) bằng 5,4m3. Chiều sâu tối thiểu của lớp nước trong bể tự hoại Hư , tính  từ đáy bể đến  mặt  nước, để đảm bảo quá trình tách cặn diễn ra và tránh được sự xáo trộn nước thải với bùn, cặn lắng và váng nổi, là 1,2 m. Chiều sâu ngăn chứa có thể lớn hơn ngăn lắng. Để thuận tiện cho việc thi công xây dựng và quản lý, chiều rộng hay đường kính bể không được dưới 0,7 m. Để tránh hiện tượng chảy tắt trong bể và tiện cho việc xây dựng, bể thường có dạng hình chữ nhật trên mặt bằng  với tỷ lệ dài: rộng = 3 : 1, với độ sâu từ 1,2 – 2,5m.
Phổ biến ở Việt Nam là bể tự hoại với cấu tạo gồm 2  ngăn hoặc 3 ngăn.  Bể thường có  dạng chữ nhật hoặc tròn. Bể tự hoại 2 ngăn gồm: ngăn chứa có kích thước lớn nhất, chiếm tối thiểu 2/3 dung tích bể; ngăn lắng, chiếm 1/3 dung tích bể. Bể tự hoại 3 ngăn gồm: ngăn chứa, dung tích tối thiểu 1/2 dung tích bể; 2 ngăn lắng, mỗi ngăn chiếm 1/4  dung  tích bể.  Trong trường hợp bể chỉ có 1 ngăn, có thể thay vách ngăn giữa  2 bể bằng các  tấm  chắn sau ống dẫn nước vào bể và trước ống thu nước ra khỏi bể, để tránh hiện tượng chảy tắt, ổn định dòng chảy và ngăn váng cặn trôi ra khỏi bể. Đối với bể tự hoại xử lý nước thải cho > 30 người,  cũng  nên dùng các tấm chắn hướng dòng đặt sau Tê vào và trước Tê ra, chạy hết chiều  rộng bể.  Đáy  ngăn chứa phải có độ dốc 25% về phía ống dẫn nước vào (phía dưới cửa  hút)  để dễ hút bùn cặn.
Bể tự hoại phải có ống thông hơi, đường kính không dưới 60mm, dẫn lên cao trên mái nhà ít nhất 0,7 m để tránh mùi, khí độc hại.

3. Thi công xây dựng, lắp đặt bể tự hoại

Bể tự hoại được xây bằng gạch, bê tông cốt thép đúc sẵn hay bể tông cốt thép đổ tại chỗ, hoặc chế tạo sẵn bằng các vật liệu như composit, HDPE, … Bể tự hoại phải được xây dựng kín, khít, đảm bảo độ an toàn về mặt kết cấu công trình, ngay cả trong điều kiện chứa  đầy nước  hay không chứa nước, chịu tác động của các công trình bên trên và lân cận, các phương tiện giao thông, đất và nước ngầm.
Nắp bể tự hoại phải có ít nhất 2 lỗ ở trên ống dẫn nước thải vào và ra khỏi bể để quản lý (kiểm tra, hút cặn). Chiều rộng lỗ hút cặn tối thiểu 200 mm. Lỗ hút cặn phải được đậy kín, khít bằng nắp đan BTCT hay chất dẻo, gắn bằng keo, gioăng cao su hay bắt ren với phần vỏ bể. Trường hợp nắp bể tự hoại đặt thấp hơn mặt đất, phải có cổ nắp đan. Cổ nắp đan được xây bằng gạch, BTCT hay chế tạo sẵn bằng chất dẻo, phải đảm bảo lắp kín, khít.
Đối với bể tự hoại xây bằng gạch: Phải xây tường đôi (220 mm) hoặc dày hơn, xếp gạch một hàng dọc lại một hàng ngang, xây bằng gạch đặc M75 (cấp độ bền B5) và vữa  xi  măng cát vàng M75, mạch vữa phải no, dày đều, miết kỹ. Các bể kích thước  lớn phải có  biện pháp  gia cố đảm bảo kết cấu. Cả mặt trong và mặt ngoài bể được trát 2 lớp vữa xi măng cát vàng M75, miết kỹ, ngoài cùng đánh màu xi măng nguyên chất chống thấm (toàn bộ chiều cao bể và mặt trong đáy bể). Tại các góc bể phải trát nguýt góc. Đặt các tấm lưới Inox hay thép chống nứt, thấm vào trong lớp vữa trong khi trát mặt trong tường bể, một phần lưới nằm trên đáy bể  ít  nhất là 20cm. Nếu mực nước ngầm cao, phải chèn thêm một lớp đất sét dày ít nhất 10cm xung quanh bể. Đáy bể phải được làm bằng BTCT, đổ liền khối với dầm bao quanh chu  vi bể  ở  chân tường, chiều cao  tối thiểu  10cm để  chống thấm. Chi tiết ống qua tường phải được hàn  sẵn tấm chắn nước và chèn kỹ bằng bê tông sỏi nhỏ M200  (cấp độ  bền B15),  hoặc bằng  gioăng cao su chịu nước. Các phần kim loại (nếu có) phải được sơn chống gỉ 2 lớp sau khi lắp đặt. Sau khi hoàn tất việc thi công, phải kiểm tra bể rò rỉ. Cho nước vào đầy bể để tránh hiện tượng đẩy nổi do nước ngầm làm di chuyển, nứt, vỡ bể.

4. Quản lý vận hành bảo dưỡng bể tự hoại

Thời gian khởi động và tạo lớp bùn trong bể tự hoại cải tiến để đạt hiệu suất xử lý ổn định thường không dưới 3 tháng. Có thể rút ngắn thời gian khởi động bằng cách đưa vào bể một lượng bùn bể phốt từ các bể tự hoại hay bể tự hoại cải tiến đang hoạt động.
Không được xả vào bể tự hoại các loại chất thải như:  nước mưa, nước chảy tràn bề mặt, nước  xả rửa bể bơi, nước làm mềm, nước xả từ phòng tắm hơi/sauna có  lưu  lượng >25% dung tích bể tự hoại, băng vệ sinh, các loại vải, nhựa, cao su,  chất thải dịch vụ,  dầu  mỡ,  các chất dễ cháy, nổ (kể cả ở dạng rắn, lỏng hay khí), chất khử trùng, khử mùi, chất kháng sinh, hoá chất  diệt cỏ và thuốc trừ sâu.. , trừ khi chất đó được nêu rõ là có thể xả vào bể tự hoại, hay bất kỳ chất nào khác có thể làm ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc của bể tự hoại.
Các loại bể tự hoại đều phải thực hiện việc  hút bùn.  Thời gian hút bùn phụ thuộc vào  số người sử dụng bể, thành phần tính chất nước thải, nhiệt độ môi trường. Từ kinh nghiệm thực tế, có thể lấy giá trị thích hợp của chu kỳ hút bùn cặn khi thiết kế và quản lý vận hành các bể tự hoại hộ gia đình là 3 năm/lần. Bể tự hoại có kích thước càng lớn thì chu kỳ hút bùn cho phép càng tăng. Phải tiến hành hút bùn cặn khi chiều sâu lớp bùn ở đáy bể > 40 cm (chiếm 1/3 chiều sâu hữu ích trong bể), hoặc khi: chiều dày lớp váng nổi > 20 cm. Phương pháp đo chiều  dày lớp  bùn và váng đơn giản nhất là dùng thanh gỗ quấn mảnh vải trắng, hay thước chữ L.  Khi hút  bùn bể tự hoại, phải để lại một phần bùn cũ (10 – 20%) để duy trì một lượng vi sinh vật kỵ khí trong bể. Tránh hút bùn bể phốt vào thời gian mực nước ngầm cao hơn đáy bể để tránh áp lực đẩy nổi có thể làm vỡ, nứt  bể và các công trình lân cận.  Trong trường hợp  cần thiết phải hút, thì chỉ hút lớp bùn đáy và lớp váng nổi, không hút hết nước ra khỏi bể. Việc hút bùn bể phốt phải được thực hiện bởi các cơ quan được cấp phép. Bùn bể phốt phải được vận  chuyển,  lưu giữ vµ xử lý đúng quy định.
(Nguồn: T/C Xây dựng, số 2/2008)