Chuyên gia đưa giải pháp gì chống hạn, xâm nhập mặn cho Đồng bằng sông Cửu Long

Ngày đăng: 08/09/2023 435 lượt xem

 Giải pháp nào nhằm xử lý tình trạng này một cách căn cơ, bền vững là điều mà cả cộng đồng đang hướng tới. Các chuyên gia, nhà khoa học hiến kế và đề xuất các giải pháp để ứng phó, đồng thời, chỉ ra những mô hình, bài học kinh nghiệm cần nhân rộng.

TS. Hoàng Văn Thắng – Nguyên Thứ trưởng Bộ NN&PTNT; Chủ tịch Hội Đập lớn Việt Nam:

So với năm 2015-2016, năm nay lượng nước về ĐBSCL thấp, mực nước ở điểm đo thấp hơn đồng nghĩa với tình trạng thiếu nước.

Vấn đề XNM, thiếu nước ngọt ở ĐBSCL được nhận dạng rõ qua đợt hạn mặn 2015-2016 và Bộ NN&PTNT có chỉ đạo bằng các giải pháp căn cơ lâu dài cần tiến hành như hợp tác trong tiểu vùng Mê Công – Lan Thương để vận hành hệ thống hồ chứa thủy điện trong những năm hạn, thiếu nước hoặc những năm lũ. Tuy nhiên, để chủ động về lâu dài cần chuyển dịch sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp thích ứng với tình hình mới như nước biển dâng, thiên tai do tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH), lũ, hạn tăng lên, XNM tiến sâu vào các tỉnh ven biển. Do đó, cần chuyển đổi sản xuất nông nghiệp sang thích ứng với nguồn nước mới, tức là vùng ven biển chuyển sang sản xuất nước mặn, nước lợ và giảm sản xuất nông nghiệp sử dụng nước ngọt vùng ven biển. Đối với vùng nước ngọt, vùng nào thiếu nước chuyển cơ cấu cây trồng sang cơ cấu cây trồng sử dụng ít nước và có biện pháp sử dụng nước tiết kiệm. Bên cạnh đó, cần nâng cao khả năng dự báo, cảnh báo sớm để đưa ra quyết định phù hợp. Ngay trong mùa mưa, tháng 9/2019 Chính phủ đã tổ chức hội nghị về phòng chống hạn cho năm 2020 ở ĐBSCL, vì có cảnh báo sớm, người dân kịp chuyển dịch cơ cấu cây trồng và tránh được giai đoạn thiếu nước.

Sau hạn năm 2016, chúng ta đã nhận dạng được một số biện pháp cấp bách về giải pháp công trình. Đến nay, đã có 5 dự án công trình phòng chống hạn mặn tại ĐBSCL sử dụng vốn ngân sách nhà nước do Bộ NN&PTNT làm chủ đầu tư đưa vào khai thác sử dụng kiểm soát mặn cho mùa khô 2019-2020: Dự án Cống Âu Thuyền Ninh Quới (tỉnh Bạc Liêu); 3 cống Vũng Liêm, Bông Bót, Tân Dinh thuộc Tiểu dự án Kiểm soát nguồn nước, thích ứng với BĐKH vùng Nam Mang Thít (tỉnh Vĩnh Long – Trà Vinh); Dự án Hệ thống thủy lợi Trạm bơm Xuân Hòa (tỉnh Tiền Giang); Dự án Nạo vét Kênh Mây Phốp ngã hậu (tỉnh Vĩnh Long – Trà Vinh); 18 cống dự án Hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre giai đoạn 1 với diện tích trực tiếp được kiểm soát khoảng 83.000 ha và tác động ảnh hưởng đến 300.000 ha diện tích đất canh tác. Ngoài ra, hiện nay 11 dự án công trình khác đang được gấp rút hoàn thành để đưa vào phục vụ công tác phòng, chống hạn mặn tại khu vực ĐBSCL.

PGS- TS. Trần Bá Hoằng – Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam:

ĐBSCL đang đứng trước nhiều sự tác động bất lợi, đang được định hình lại với nhiều đặc điểm tự nhiên khác hẳn so với trước đây, chẳng hạn, tần suất lũ lớn giảm nhiều, mặn hạn xảy ra thường xuyên hơn, xói lở bờ biển nghiêm trọng.

Hai yếu tố tác động từ bên ngoài quan trọng nhất là khai thác ở thượng lưu (làm thay đổi quy luật dòng chảy, giảm một phần lượng nước và suy kiệt phù sa về đồng bằng) và BĐKH (trong đó nước biển dâng là yếu tố cốt lõi) đã đặt chúng ta ở thế chống đỡ. Thêm vào đó, hiện tượng lún sụt đất (nội đồng bằng) đang trở nên rất nghiêm trọng. Bởi vậy, tôi cho rằng, chiến lược quan trọng nhất đối với ĐBSCL là chủ động thích nghi (hay nói khác đi là thích nghi có kiểm soát, làm chủ tình huống khi bất lợi xảy ra).

Trong giai đoạn trước mắt và trung hạn, vấn đề thứ nhất, ĐBSCL cần ưu tiên là giải quyết hạn mặn ở các vùng ven biển, trong đó, cần tiến hành các nhóm giải pháp: Tăng cường nguồn nước ngọt cho các hệ thống thủy lợi, các vùng ven biển thiếu nước ngọt; kiểm soát vào các vùng ngọt; thay đổi, điều chỉnh các mô hình sản xuất theo hướng ít sử dụng nước ngọt hơn và tăng cường sử dụng nước mặn lợ, nước mưa; điều chỉnh mềm dẻo lịch sản xuất theo từng mùa, từng năm trong các vùng ven biển, thậm chí trên cả đồng bằng; quản lý nước và sản xuất hiệu quả hơn. Để giải quyết vấn đề này, nhiệm vụ dự báo nguồn nước, XNM, thị trường cả ngắn hạn và dài hạn là rất quan trọng. Trên thực tế, chúng ta đang đi theo tất cả các hướng trên và đã giải quyết rất hiệu quả. Vấn đề thứ hai là, cần nhanh chóng xử lý ổn định bờ biển, tránh mất đất (vì hiện nay xói lở khó có khả năng phục hồi). Vấn đề này chúng ta đã và đang nghiên cứu các giải pháp phù hợp, bước đầu đã đạt được những kết quả tích cực. Về lâu dài cần xây dựng hệ thống quan trắc các yếu tố tác động như: Sóng, gió, dòng chảy ven bờ, bùn cát… làm cơ sở xây dựng các giải pháp công trình, phi công trình nhằm phòng chống xói lở bờ biển cũng như gây bồi tạo bãi, rồng rừng ngập mặn.

Trong tương lai xa, ĐBSCL đối mặt với nhiều vấn đề hơn: Hạn mặn và xói lở bờ biển sẽ tiếp tục diễn ra phức tạp hơn hiện nay; thêm vào đó, vấn đề ngập trên ĐBSCL nhiều khả năng sẽ là trở ngại lớn nhất. Một số vùng ven biển, vùng trũng sau 100 năm nữa ngập tiềm năng (ở thể tự nhiên, không kiểm soát) có thể đến trên 3 m nếu tốc độ nước biển dâng như hiện nay (khoảng 3-3,5 mm/năm) và lún đất tiếp tục như hiện tại (1-3 cm/năm) không được hạn chế. Đến thời điểm đó, tất cả các đối tượng trên đồng bằng đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng (hạ tầng dân cư, giao thông, xây dựng, thủy lợi, sản xuất, môi trường, hệ sinh thái…). Có thể thấy, xu thế ngập gia tăng nhanh là tất yếu nếu chúng ta không đưa ra được các giải pháp hạn chế các tác nhân gây ra. Vì vậy, việc đưa ra các giải pháp và bước đi từ bây giờ là hết sức cần thiết, trong đó, ưu tiên cho việc nghiên cứu lún sụt đất và sớm hoàn thành quy hoạch phát triển tổng thể ĐBSCL trong điều kiện BĐKH.

GS.TS. Phạm Thị Hương Lan – Viện trưởng Viện Thủy văn, môi trường và biến đổi khí hậu – Đại học Thủy lợi:

ĐBSCL hiện đang phải chịu tác động mạnh mẽ trực tiếp lẫn gián tiếp từ các hoạt động phát triển KT-XH và sử dụng TNN từ phía thượng lưu, trong khu vực ĐBSCL và sự thay đổi điều kiện tự nhiên trên toàn lưu vực, đặc biệt là trong điều kiện thời tiết khí hậu cực đoan ngày càng diễn ra với tần suất và mức độ gia tăng
Dưới tác động của tình hình hạn hán, thiếu nước, XNM ngày càng khốc liệt, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và người dân đã đầu tư nhiều nguồn lực nhằm tìm nguyên nhân, giải pháp ứng phó và các hoạt động cụ thể để giảm thiểu tác động của hạn mặn tới đời sống và hoạt động sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Mặc dù vậy, tình trạng hạn mặn mùa khô năm nay (2019-2020) diễn ra khốc liệt chưa từng có trong 100 năm trở lại đã vượt tầm ứng phó của các công trình và giải pháp hiện có, đẩy các giải pháp hiện có đang ở thế  “bị động”, đặc biệt là “bị động”  trong tình huống nguồn nước bị suy giảm.

Để chủ động ứng phó hiệu quả và giảm thiểu các tác động tiêu cực của hạn mặn đã, đang và sẽ diễn biến ngày càng khốc liệt ở khu vực ĐBSCL cần thực hiện một số nghiên cứu có tính hệ thống. Trước hết cần dự báo sớm tình hình thiếu nước, hạn mặn vùng ĐBSCL theo các kịch bản nguồn nước phía thượng nguồn để có giải pháp chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng vật nuôi, tuy nhiên, đây cũng mang tính “bị động”. Về lâu dài, cần chủ động trong trường hợp thiếu nước luôn luôn xảy ra với các giải pháp trữ nước, hoàn thiện các công trình phòng, chống hạn hán, XNM và xây dựng quy trình vận hành các công trình kiểm soát triều một cách hợp lý. Cần có những nghiên cứu đánh giá, phân vùng chi tiết khả năng thích ứng của các đối tượng sử dụng nước trong trường hợp hạn mặn cực đoan xảy ra. Bên cạnh đó, việc nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc sử dụng nước tiết kiệm hiệu quả, tránh lãng phí nguồn nước, đặc biệt trong điều kiện hiện nay là cần thiết.

Nguồn: Tài nguyên môi trường